Quy hoạch Tổng thể Quốc gia 2021-2030 với tầm nhìn đến năm 2050 đã định hướng rõ ràng sự phát triển toàn diện của Việt Nam. Bằng việc tập trung vào chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, đất nước này hướng tới một tương lai thịnh vượng, phát triển bền vững và hài hòa với thiên nhiên. Việc triển khai các nhiệm vụ quan trọng trong quy hoạch này sẽ đóng góp lớn vào việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam.
Ảnh minh họa
Tầm nhìn đến năm 2050
Nghị quyết số 81/2023/QH15 của Quốc hội đã khẳng định tầm nhìn đến năm 2050 của Việt Nam. Theo đó, Việt Nam sẽ trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, với một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại và xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Quốc gia này sẽ phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế.
Kinh tế bền vững dựa trên chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, một trong những quan điểm chủ đạo của Quy hoạch là phát triển bền vững dựa chủ yếu vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh. Việt Nam sẽ tập trung vào việc xây dựng một nền kinh tế số, xanh và tuần hoàn. Các mục tiêu tăng trưởng kinh tế sẽ được đề ra cụ thể, như tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân khoảng 6,5-7,5%/năm giai đoạn 2031-2050.
Tạo ra những vùng động lực phát triển, nghị quyết cũng định hướng việc phát triển không gian kinh tế-xã hội thành 6 vùng kinh tế-xã hội, từ phía Bắc đến phía Nam của đất nước. Các vùng này sẽ tập trung vào các lĩnh vực phát triển mạnh mẽ, từ phát triển công nghiệp đến phát triển vùng biển.
Triển khai các nhiệm vụ quan trọng, hội nghị đã đề ra 10 nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để triển khai quy hoạch này. Đây bao gồm quán triệt nội dung của Quy hoạch tổng thể quốc gia trong từng cơ quan, đơn vị; ưu tiên bố trí nguồn lực để thực hiện có hiệu quả; xây dựng nhiều cơ chế, chính sách theo hướng tăng cường phân cấp huy động, sử dụng nguồn lực đầu tư ở Trung ương và địa phương; đối với thu hút đầu tư phát triển, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính; phát triển nguồn nhân lực; chăm lo công tác an sinh xã hội; đẩy mạnh khoa học, công nghệ và môi trường; tập trung cho nguồn lực tài chính thực hiện quy hoạch; đẩy mạnh hợp tác quốc tế và bảo đảm an ninh quốc phòng.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham quan triển lãm ảnh đồng bằng sông Hồng “Liên kết phát triển - Đổi mới sáng tạo - Xanh và bền vững” tại Hội nghị về phát triển vùng đồng bằng sông Hồng _Ảnh: TTXVN.
Những nhiệm vụ trọng tâm và định hướng trong Quy hoạch
Những nhiệm vụ trọng tâm
Thứ nhất, hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, tập trung vào hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị, hạ tầng nông thôn, hạ tầng năng lượng, hạ tầng số, hạ tầng văn hóa, xã hội, hạ tầng thủy lợi, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Thứ hai, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn, gắn với không gian phát triển mới.
Thứ ba, phát triển các vùng động lực, cực tăng trưởng quốc gia quan trọng để hình thành các đầu tàu dẫn dắt sự phát triển của quốc gia.
Thứ tư, hình thành và phát triển các hành lang kinh tế theo trục Bắc - Nam, các hành lang kinh tế Đông - Tây, các vành đai kinh tế ven biển, các vành đai công nghiệp - đô thị - dịch vụ tại các vùng động lực, vùng đô thị lớn.
Định hướng ưu tiên phát triển và phân bố không gian các ngành kinh tế
Tập trung phát triển một số ngành công nghiệp nền tảng đáp ứng nhu cầu về tư liệu sản xuất cơ bản của nền kinh tế. Ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghệ số, công nghệ mới. Phát triển các ngành công nghiệp xanh, gắn với mô hình kinh tế tuần hoàn, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên. Bố trí không gian công nghiệp theo hướng gắn với hệ thống đô thị, trung tâm dịch vụ để hình thành các hành lang kinh tế, các vùng động lực. Mở rộng không gian phát triển công nghiệp về khu vực phía tây của đường cao tốc Bắc - Nam phía đông, vùng trung du để giảm sức ép sử dụng quỹ đất tại đồng bằng và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu.
Về dịch vụ, xây dựng các trung tâm thương mại, tài chính... mang tầm khu vực và thế giới tại các thành phố lớn, gắn với phát triển các vùng động lực, hành lang kinh tế. Hình thành các trung tâm logistics quy mô, hiện đại gắn với các cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế lớn. Phát triển các trung tâm du lịch có sức cạnh tranh khu vực và quốc tế.
Xây dựng các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung gắn với phát triển các trung tâm công nghiệp chế biến. Tăng tỷ trọng thủy sản, hoa quả và giảm tỷ trọng lúa gạo một cách hợp lý tại vùng đồng bằng sông Cửu Long. Phát triển nông nghiệp theo hướng hiệu quả cao, hữu cơ, nông nghiệp phục vụ đô thị tại vùng đồng bằng sông Hồng. Tăng diện tích trồng cây ăn quả, phát triển kinh tế lâm nghiệp, phát triển dược liệu gắn với công nghiệp chế biến tại các vùng Tây Nguyên, Trung du và miền núi phía Bắc. Đối với khu vực ven biển, phát triển nuôi trồng thủy sản ven bờ kết hợp trồng và bảo vệ rừng ngập mặn; phát triển khai thác thủy sản vùng ngoài khơi hiệu quả, bền vững.
Định hướng ưu tiên phát triển và phân bố không gian các ngành kết cấu hạ tầng
Đối với các ngành hạ tầng kỹ thuật: Tập trung các nguồn lực phát triển mạng lưới kết cấu hạ tầng để hỗ trợ hình thành các hành lang kinh tế và sớm hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại tại các vùng động lực. Xây dựng đường bộ cao tốc kết nối các trung tâm kinh tế lớn, gắn với các vùng động lực, các hành lang kinh tế. Nâng cấp, xây dựng các cảng biển, cảng hàng không cửa ngõ quốc tế. Đẩy nhanh xây dựng đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, các tuyến đường sắt kết nối với các cảng biển, cảng hàng không lớn. Phát triển hạ tầng năng lượng, bảo đảm cung cấp năng lượng đầy đủ, ổn định, góp phần thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” đến năm 2050. Đẩy mạnh phát triển hạ tầng số, hạ tầng dữ liệu quốc gia. Phát triển hạ tầng bảo vệ môi trường, hạ tầng thủy lợi, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Đối với các ngành hạ tầng xã hội: Ưu tiên đầu tư các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao, tiếp cận trình độ các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới tại các thành phố lớn, các vùng động lực. Phát triển hợp lý mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông gắn với nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu xã hội. Xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Xây dựng một số bệnh viện ngang tầm khu vực và quốc tế; hình thành, phát triển các trung tâm y tế chuyên sâu, hiện đại. Xây dựng, hiện đại hóa một số trung tâm văn hóa, khu liên hợp thể thao quốc gia... đạt tiêu chuẩn quốc tế. Quan tâm xây dựng hạ tầng xã hội tại các địa bàn khó khăn, bảo đảm hài hòa, cân đối giữa phát triển kinh tế với văn hóa, xã hội.
Định hướng tổ chức không gian theo vùng, lãnh thổ
Thực hiện Kết luận số 45-KL/TW, ngày 17-11-2022, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII, “Về Định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”, trong Quy hoạch đã xác định tổ chức không gian phát triển vùng theo 6 vùng kinh tế - xã hội hiện nay. Theo đó, tổ chức không gian phát triển vùng và định hướng liên kết vùng được tiến hành, như sau:
Vùng Trung du và miền núi phía Bắc: Phát triển vùng theo hướng xanh, bền vững và toàn diện. Tập trung bảo vệ, khôi phục rừng; phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững; khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên khoáng sản; bảo đảm an ninh nguồn nước. Phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, năng lượng; nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hữu cơ, đặc sản; kinh tế cửa khẩu, du lịch. Nghiên cứu xây dựng vành đai Bắc Giang - Thái Nguyên - Phú Thọ trở thành vành đai động lực thúc đẩy tăng trưởng cả vùng.
Vùng đồng bằng sông Hồng: Tập trung phát triển các ngành sản xuất công nghiệp và dịch vụ hiện đại. Xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo, đi đầu trong phát triển khoa học, công nghệ. Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, hữu cơ, phục vụ đô thị. Tiếp tục xây dựng khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh trở thành trung tâm kinh tế biển. Phát triển vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ (Ninh Bình - Quảng Ninh).
Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung: Phát triển mạnh kinh tế biển kết hợp với bảo đảm quốc phòng - an ninh. Nâng cao hiệu quả hệ thống cảng biển, các khu kinh tế ven biển, khu công nghiệp. Phát triển du lịch biển, du lịch văn hóa - lịch sử. Đẩy mạnh nuôi trồng, khai thác, chế biến hải sản. Nâng cao năng lực phòng, chống thiên tai. Xây dựng khu vực ven biển ba tỉnh Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh trở thành trung tâm phát triển công nghiệp của vùng và cả nước.
Vùng Tây Nguyên: Bảo vệ rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu nguồn gắn với bảo đảm an ninh nguồn nước. Nâng cao hiệu quả phát triển cây công nghiệp, mở rộng diện tích cây ăn quả, dược liệu, rau, hoa. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản, năng lượng tái tạo; phát triển bền vững công nghiệp khai thác bau-xít, chế biến alumin, sản xuất nhôm. Phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa gắn với bảo tồn, phát huy giá trị, bản sắc văn hóa các dân tộc.
Vùng Đông Nam Bộ: Trở thành vùng phát triển năng động, động lực tăng trưởng lớn nhất cả nước; trung tâm khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, công nghiệp công nghệ cao, logistics và trung tâm tài chính quốc tế có tính cạnh tranh cao trong khu vực; đi đầu trong đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi số. Giải quyết cơ bản tình trạng ô nhiễm môi trường, tắc nghẽn giao thông và ngập úng.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long: Phát triển vùng trở thành trung tâm kinh tế nông nghiệp bền vững, năng động và hiệu quả cao của cả nước, khu vực và thế giới. Tập trung sản xuất nông nghiệp hàng hóa, hiện đại gắn với chế biến và xây dựng thương hiệu sản phẩm; sử dụng đất nông nghiệp linh hoạt hơn. Phát triển công nghiệp xanh, năng lượng tái tạo. Chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
Hà Tĩnh là tỉnh thứ hai được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Quy hoạch xác định mục tiêu xây dựng tỉnh Hà Tĩnh trở thành một trong những cực phát triển của vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, phấn đấu đến năm 2030 trở thành tỉnh khá, nằm trong nhóm 20 tỉnh, thành phố có tổng sản phẩm trên địa bàn cao nhất cả nước; phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, đối ngoại ổn định, bền vững. Và đến năm 2050, Hà Tĩnh là tỉnh công nghiệp hiện đại, phát triển toàn diện, bền vững, trở thành một cực tăng trưởng của vùng Bắc Trung Bộ và cả nước.
Sau khi Quy hoạch tỉnh được phê duyệt, Hà Tĩnh đã tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với công tác quy hoạch như: rà soát, điều chỉnh các quy hoạch phù hợp Quy hoạch tỉnh; tăng cường quản lý quy hoạch xây dựng, quản lý quỹ đất theo quy hoạch; khẩn trương triển khai lập các quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết để tạo thuận lợi trong thu hút, triển khai dự án đầu tư... Tỉnh đã và đang phối hợp tích cực với Bộ KH&ĐT, các bộ, ngành trong việc góp ý các quy hoạch quốc gia; góp ý hồ sơ quy hoạch của các tỉnh trong khu vực theo quy định của Luật Quy hoạch.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các cấp, các ngành tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện 10 nhiệm vụ, giải pháp quan trọng.
Theo đó, thứ nhất, phải quán triệt nội dung của Quy hoạch tổng thể quốc gia để thực hiện trong từng cơ quan, đơn vị; rà soát, cập nhật và cụ thể hóa các nội dung của Quy hoạch tổng thể quốc gia vào các quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng và quy hoạch cấp tỉnh đã phê duyệt hoặc đang thẩm định, đang lập, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của các cấp quy hoạch. Thứ hai, ưu tiên bố trí nguồn lực để thực hiện có hiệu quả Quy hoạch tổng thể quốc gia, nhất là tập trung nguồn vốn thực hiện các chương trình, dự án quan trọng quốc gia. Thứ ba, xây dựng nhiều cơ chế, chính sách theo hướng tăng cường phân cấp huy động, sử dụng nguồn lực đầu tư ở Trung ương và địa phương.Thứ tư, đối với thu hút đầu tư phát triển, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường đầu tư, kinh doanh. Thứ năm là vấn đề phát triển nguồn nhân lực. Thứ sáu, chăm lo công tác an sinh xã hội. Thứ bảy, đẩy mạnh khoa học, công nghệ và môi trường. Thứ tám, tập trung cho nguồn lực tài chính thực hiện quy hoạch. Thứ chín, đẩy mạnh hợp tác quốc tế. Thứ mười, bảo đảm an ninh quốc phòng.
Trong khuôn khổ Hội nghị, Ban Tổ chức cùng công bố cơ sở dữ liệu quốc gia về Quy hoạch tổng thể quốc gia.