Phát huy sức mạnh của Báo chí khoa học Việt Nam hiện nay
Với 69 cơ quan báo chí gồm một báo và 68 tạp chí, trong đó 27 tạp chí được Hội đồng Giáo sư Nhà nước chấm điểm công trình công bố, hệ thống báo chí của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã đóng góp quan trọng cho sự phát triển khoa học công nghệ đất nước. Tuy nhiên, trước sức ép kinh tế báo chí và các chính sách tinh gọn bộ máy của Đảng và Nhà nước, báo chí khoa học cần tìm lại tiếng nói và sứ mệnh của mình trong giai đoạn mới.
![]() |
| PGS. TS Phạm Ngọc Linh, Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam khai mạc Hội thảo. |
Bốn trụ cột đóng góp của báo chí khoa học
Tại hội thảo "Vai trò của báo chí trong xây dựng và phát triển Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam" diễn ra ngày 27/11/2025, các chuyên gia nhìn nhận báo chí khoa học đã xây dựng được bốn trụ cột đóng góp cho sự nghiệp khoa học công nghệ nước nhà.
Trụ cột thứ nhất là công bố công trình khoa học. TS. Nguyễn Văn Cảm, Phó Tổng biên tập Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y khẳng định: "Một tạp chí khoa học đạt chuẩn của Bộ Khoa học và Công nghệ cũng như Hội đồng Giáo sư nhà nước giúp công bố các kết quả nghiên cứu khoa học, thu hút đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học có uy tín, tạo diễn đàn học thuật cho các hội ngành và các nhà nghiên cứu". TS. Nguyễn Văn Cảm nhấn mạnh đây chính là cơ sở để Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) khẳng định vị thế của mình như tổ chức tập hợp trí thức lớn nhất cả nước.
![]() |
| TS. Nguyễn Văn Cảm, Phó Tổng biên tập Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y chia sẻ tại Hội thảo |
Tiến sĩ Đặng Vũ Cảnh Linh, Phó Viện trưởng, Viện Đào tạo bồi dưỡng cán bộ và Nghiên cứu khoa học thuộc Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cho biết: "Với 69 cơ quan báo chí, hệ thống báo chí của Liên hiệp Hội đã và đang là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của khoa học và công nghệ nước nhà. Báo chí đã tạo ra các diễn đàn quan trọng để thực hiện chức năng của Liên hiệp Hội trong phổ biến tri thức, tư vấn, phản biện, giám định xã hội".
Trụ cột thứ hai là phổ biến kiến thức khoa học. TS. Phạm Thị Mỵ, Tổng Biên tập Tạp chí Sức khỏe và Môi trường, nhấn mạnh: "Báo chí, với sức mạnh truyền thông của mình, có thể giúp phổ biến các nghiên cứu, các kết quả khoa học và các thành tựu kỹ thuật tới đông đảo công chúng. Những bài báo, phóng sự, chương trình truyền hình hay các ấn phẩm khoa học kỹ thuật là cầu nối giúp cho những phát minh, sáng chế, nghiên cứu của các chuyên gia, các nhà khoa học đến với cuộc sống".
TS. Phạm Thị Mỵ lý giải, trong bối cảnh khoa học công nghệ đóng vai trò then chốt trong mọi lĩnh vực từ sản xuất đến đời sống xã hội, việc nâng cao nhận thức cộng đồng về vai trò của khoa học kỹ thuật trở nên vô cùng cần thiết. Báo chí có thể giúp người dân, từ học sinh sinh viên cho đến người lao động, hiểu rõ hơn về giá trị của nghiên cứu khoa học và tầm quan trọng của việc ứng dụng các thành tựu kỹ thuật vào thực tiễn.
Trụ cột thứ ba là tư vấn phản biện chính sách. TS. Lê Nghiêm, Phó Chủ tịch Hội Truyền thông số Việt Nam phân tích: "Báo chí thực hiện ba chức năng lớn trong lĩnh vực chính sách công. Thứ nhất là chức năng thông tin, đưa các dự thảo luật, chính sách, quy định đến gần hơn với người dân, doanh nghiệp và giới chuyên môn. Thứ hai là chức năng giám sát xã hội, phát hiện những hạn chế trong cơ chế quản lý, những bất cập của chính sách khi đi vào cuộc sống. Thứ ba là chức năng định hướng và tạo đồng thuận".
![]() |
| TS. Lê Nghiêm, Phó Chủ tịch Hội Truyền thông số Việt Nam chia sẻ tại Hội thảo |
TS. Lê Nghiêm khẳng định: "Trong những năm qua, Liên hiệp Hội đã triển khai hàng trăm nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định xã hội trên nhiều lĩnh vực: môi trường, giáo dục, y tế, quy hoạch, năng lượng, khoa học công nghệ. Báo chí không chỉ là kênh đưa tin, mà là một mắt xích quan trọng trong chu trình hình thành, phản biện, hoàn thiện chính sách công".
Trụ cột thứ tư là kết nối các nhà khoa học trong nước và quốc tế. Cũng theo TS. Phạm Thị Mỵ: "Báo chí không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối khoa học với cộng đồng trong nước mà còn góp phần nâng cao vị thế khoa học Việt Nam trên trường quốc tế. Các thông tin về những nghiên cứu, dự án khoa học, hợp tác quốc tế của Việt Nam có thể được báo chí phản ánh kịp thời và chính xác, tạo cơ hội để các nhà khoa học Việt Nam được biết đến rộng rãi hơn".
Đồng quan điểm, TS. Nguyễn Văn Cảm cũng nhấn mạnh: "Hoạt động của các hội ngành, các chương trình khoa học công nghệ được báo chí phản ánh rộng rãi, giúp khẳng định vai trò của Liên hiệp Hội Việt Nam như một tổ chức chính trị xã hội của trí thức, có đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của đất nước".
Diễn đàn tin cậy đưa khoa học vào thực tiễn
Nhà báo Đặng Đình Chấn, Tạp chí Việt Nam hội nhập khẳng định: "Báo chí trong hệ thống Liên hiệp Hội là kênh truyền tải tri thức khoa học đến cộng đồng, chuyển tải các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn, góp phần định hướng dư luận khoa học".
![]() |
| Nhà báo Đặng Đình Chấn, Tạp chí Việt Nam hội nhập chia sẻ tại Hội thảo |
Nhà báo Đặng Đình Chấn phân tích thêm: "Thông qua các bài báo chất lượng, báo chí trong hệ thống giúp lan tỏa các phát hiện mới, các kiến nghị chính sách, các phân tích khoa học phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước. Báo chí có thể tạo áp lực dư luận tích cực đối với việc sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học trong xây dựng chính sách. Bởi trong thực tế, không phải kết quả nghiên cứu tích cực nào cũng đều được quan tâm ứng dụng trong hoạt động xây dựng chính sách"
Tiến sĩ Đặng Vũ Cảnh Linh nhìn nhận: "Báo chí đã tạo ra các diễn đàn quan trọng, đồng thời kiến tạo môi trường sinh hoạt chuyên môn, học thuật không thể thiếu của cộng đồng khoa học Liên hiệp Hội Việt Nam".
TS. Hồ Quang Hòa, Tổng biên tập Tạp chí Tâm lý - Giáo dục Việt Nam đưa ra ví dụ cụ thể về cách báo chí có thể trở thành cầu nối giữa nghiên cứu và thực tiễn: "Các tạp chí khoa học có thể là cầu nối để những nghiên cứu đi vào chính sách qua các bài phân tích chính sách, vào nhà trường qua bài viết hướng dẫn thực hành sư phạm và vào đời sống người dân qua các bài phổ biến khoa học. Đối với Liên hiệp Hội, đây chính là đường ống để chuyển tri thức khoa học của trí thức thành giá trị, thành sức mạnh mềm của quốc gia".
TS. Nguyễn Văn Cảm bổ sung: "Báo chí đồng thời là môi trường để các nhà khoa học, đặc biệt là lớp trẻ, rèn luyện phương pháp nghiên cứu, kỹ năng viết bài, công bố công trình khoa học. Một hệ thống báo chí chuyên nghiệp, đạt chuẩn quốc gia và quốc tế chính là thước đo năng lực nghiên cứu của các hội thành viên, đồng thời góp phần nâng cao uy tín và vị thế của Liên hiệp Hội trong hệ thống chính trị và trong xã hội".
Sức ép kinh tế báo chí và chính sách tinh gọn bộ máy của Đảng và Nhà nước
Trong bối cảnh phát triển hiện nay, hệ thống báo chí khoa học thuộc Liên hiệp Hội Việt Nam đang đối mặt với những thách thức chưa từng có trong bối cảnh tinh gọn bộ máy và áp lực tài chính gia tăng. Câu hỏi đặt ra: Làm thế nào để giữ được những tờ báo thực sự có giá trị trong làn sóng sắp xếp lại hiện nay?
Dự thảo Luật Báo chí sửa đổi cũng đang đặt ra những vấn đề căn bản về tương lai của báo chí Việt Nam. Chủ trương tinh gọn bộ máy báo chí nhận được sự đồng thuận rộng rãi, nhưng cách thức thực hiện lại khiến nhiều người làm báo lo lắng.
Tại Hội thảo, nhà báo Hồ Quang Lợi, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Việt Nam, nhấn mạnh một nguyên tắc quan trọng: tinh gọn phải dựa trên tiêu chí khách quan, khoa học, tránh áp dụng cơ học theo cấp hành chính. Ông dẫn chứng trường hợp báo Tuổi Trẻ ở thành phố Hồ Chí Minh - về mặt hành chính chỉ là cơ quan báo chí cấp thành phố, nhưng thực tế lại có sức ảnh hưởng toàn quốc. Nếu sắp xếp theo thứ bậc hành chính thuần túy, những tờ báo có giá trị này có thể bị mất đi.
![]() |
| Nhà báo Hồ Quang Lợi, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội truyền thông số Việt Nam chia sẻ tại Hội thảo |
Thực tế cho thấy không khí tại các tòa soạn hiện nay không mấy vui vẻ khi bàn về vấn đề sắp xếp. Lo ngại của người làm báo có cơ sở khi nhiều cơ quan báo chí phải đối mặt với nguy cơ bị sáp nhập mà chưa có tiêu chí đánh giá rõ ràng về giá trị thực sự của họ.
Với 69 cơ quan báo chí thuộc Liên hiệp Hội Việt Nam, câu hỏi đặt ra: Bao nhiêu cơ quan thực sự cần thiết? Nếu áp dụng tiêu chí về tác động xã hội, số lượng độc giả hay khả năng tự chủ tài chính, nhiều tạp chí khoa học sẽ không đạt yêu cầu. Nhưng nếu xét vai trò phục vụ cộng đồng chuyên ngành, tạo diễn đàn học thuật cho các hội thành viên, mỗi tạp chí lại có lý do tồn tại riêng.
Áp lực tài chính đang đẩy nhiều tạp chí khoa học vào thế khó. Nguồn thu chủ yếu từ phí đăng bài và hỗ trợ của cơ quan chủ quản không đủ bù đắp chi phí vận hành ngày càng tăng. Chi phí biên tập, phản biện, công nghệ và duy trì cơ sở dữ liệu đòi hỏi ngân sách lớn hơn nhiều so với những gì các tạp chí có thể huy động.
Mâu thuẫn nảy sinh khi tạp chí cần đăng nhiều bài để có nguồn thu, trong khi việc đăng nhiều bài có thể ảnh hưởng đến chất lượng kiểm duyệt. Mối quan hệ giữa người nghiên cứu cần đăng bài để đạt yêu cầu và tạp chí cần bài để ra số tạo nên một thị trường cung cầu, nơi chất lượng nội dung đôi khi bị đặt xuống vị trí thứ hai.
Chuyển đổi số đặt ra thách thức mới. Xu hướng toàn cầu là các tạp chí khoa học chuyển sang xuất bản điện tử, mở, miễn phí cho người đọc. Mô hình này đòi hỏi nguồn kinh phí lớn để duy trì hạ tầng công nghệ, nhưng nguồn thu từ phí xuất bản mà tác giả trả có thể không đủ bù đắp chi phí.
Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo càng làm phức tạp thêm tình hình. Người đọc không còn truy cập vào các trang web theo cách truyền thống nữa. AI đang thay đổi cách thức tiếp cận thông tin, đặt ra những câu hỏi mới về bản quyền và vai trò của báo chí.
Tiếng nói của báo chí khoa học ở đâu?
Giữa bối cảnh bốn Nghị quyết trụ cột 57, 68, 70, 71 của Đảng đặt ra yêu cầu cao cho phát triển khoa học công nghệ, kinh tế tư nhân, an ninh năng lượng và giáo dục, tiếng nói của báo chí khoa học cần được nghe rõ hơn. Nhưng tiếng nói ấy sẽ từ đâu nếu hệ thống báo chí khoa học bị thu hẹp quá mức?
Dư luận kỳ vọng vào Liên hiệp Hội trước hết vì đây là nơi tập hợp đội ngũ trí thức khoa học. Trí thức khoa học mang một đặc trưng then chốt: tính phản biện. Phản biện theo tinh thần khoa học là con đường dẫn đến chân lý.
Báo chí thuộc Liên hiệp Hội cần trở thành diễn đàn của trí thức khoa học Việt Nam, nơi tính phản biện được đề cao. Tất nhiên, phản biện phải khoa học và phải xây dựng, hướng tới sự phát triển của đất nước, không phải là công cụ để đưa những quan điểm sai trái lên báo chí.
Một nguy cơ đáng lo ngại là sự lẫn lộn giữa báo chí và truyền thông. Một số người, kể cả những người đang giữ vị trí lãnh đạo, chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng đặc biệt của báo chí. Họ lẫn lộn giữa báo chí với truyền thông, thậm chí cho rằng truyền thông có thể thay thế được báo chí. Đây là quan niệm sai lầm nghiêm trọng.
Báo chí là trụ cột của truyền thông, đóng vai trò định hướng cho cả hệ thống truyền thông và xã hội. Truyền thông càng phát triển, trí tuệ nhân tạo càng chiếm lĩnh xã hội thì vai trò báo chí càng trở nên cần thiết. Các nhà báo phải nhận thức rõ mình đang cầm bút để phục vụ lợi ích của đất nước và nhân dân.
Giải pháp được đề xuất là xây dựng đề án phát triển các cơ quan báo chí của Liên hiệp Hội Việt Nam. Trên cơ sở đề án ấy, việc sắp xếp mới có thể thực hiện một cách toàn diện, đánh giá cả quá trình, những ưu điểm, khuyết điểm và hướng phát triển tương lai.
Trách nhiệm ở đây là trách nhiệm kép. Các nhà khoa học có trách nhiệm đóng góp ý kiến, nhưng cơ quan báo chí cũng có trách nhiệm kiểm duyệt nội dung thông qua bộ lọc chuyên nghiệp. Đó là ý thức và trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ, đảng viên làm công tác báo chí.
Hệ thống báo chí của Liên hiệp Hội Việt Nam là một hệ sinh thái phong phú, có những đóng góp quan trọng trong việc phục vụ sự phát triển của tổ chức trong những năm qua. Phục vụ Liên hiệp Hội có nghĩa là phục vụ xã hội, phục vụ đất nước.
Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để vừa tuân thủ chính sách sắp xếp của Nhà nước, vừa duy trì được vai trò của báo chí khoa học trong việc phục vụ cộng đồng trí thức. Liệu có thể sáp nhập nhiều tạp chí nhỏ thành các tạp chí liên ngành lớn hơn, chất lượng cao hơn? Hay mỗi chuyên ngành vẫn cần có tạp chí riêng để phục vụ nhu cầu đặc thù?
Thời gian sẽ trả lời những câu hỏi này. Nhưng điều chắc chắn là nếu quá trình sắp xếp được thực hiện một cách điềm tĩnh, khoa học, khách quan, những tờ báo có vị trí xứng đáng trong nền báo chí cách mạng Việt Nam sẽ được giữ lại. Những tờ báo thực sự có sức mạnh, có đóng góp thiết thực và bảo vệ được lực lượng làm báo - những nhà báo thể hiện tính chuyên nghiệp và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp.
Trong khi đó, TS. Hồ Quang Hòa đặt ra câu hỏi: "Nghị quyết 71 đặt ra yêu cầu đột phá phát triển giáo dục đào tạo, xây dựng xã hội học tập. Đây là đất sống tự nhiên của các nghiên cứu tâm lý học, giáo dục học. Tuy nhiên, bao nhiêu bài báo thực sự góp phần giải quyết vấn đề sức khỏe tâm thần học đường, áp lực thi cử, căng thẳng nghề nghiệp của giáo viên, bất bình đẳng cơ hội học tập?"
![]() |
| TS. Hồ Quang Hòa, Tổng biên tập Tạp chí Tâm lý - Giáo dục Việt Nam chia sẻ tại Hội thảo |
TS. Hồ Quang Hòa cũng đặt câu hỏi về Nghị quyết 57: "Yêu cầu then chốt là tâm lý chấp nhận đổi mới, năng lực thích ứng chuyển đổi số của giáo viên, học sinh, trí thức, người lao động. Đã có bao nhiêu nghiên cứu về điều này được công bố và ứng dụng?".
TS. Lê Nghiêm thẳng thắn chỉ ra: "Không ít vấn đề nóng của đời sống chính sách bắt đầu từ báo chí: ô nhiễm môi trường, an toàn thực phẩm, bất cập trong giáo dục. Báo chí đại chúng phát hiện và đưa tin trước, sau đó các cơ quan chuyên môn mới vào cuộc". Điều này cho thấy vai trò giám sát của báo chí Liên hiệp Hội Việt Nam còn chậm và thụ động so với báo chí đại chúng.
Nhà báo Đặng Đình Chấn nhận định: "Báo chí có thể tạo áp lực dư luận tích cực đối với việc sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học trong xây dựng chính sách. Bởi trong thực tế, không phải kết quả nghiên cứu tích cực nào cũng đều được quan tâm ứng dụng trong hoạt động xây dựng chính sách".
Tiếng nói của báo chí khoa học cần phải là tiếng nói độc lập, dựa trên bằng chứng khoa học, dám chỉ ra những vấn đề thực chất của xã hội, dám phản biện những chính sách chưa phù hợp, dám đề xuất những giải pháp mới.
Giải pháp phát triển trong hành trình mới
TS. Đặng Vũ Cảnh Linh nhấn mạnh: "Trong tiến trình triển khai Nghị quyết 57, báo chí Liên hiệp Hội Việt Nam giữ vai trò cầu nối quan trọng giúp lan tỏa các chủ trương lớn, giải thích rõ các điểm mới, nhiệm vụ trọng tâm của Liên hiệp Hội Việt Nam, đồng thời phản ánh nhu cầu, khó khăn và kỳ vọng của đội ngũ trí thức, doanh nghiệp, các tổ chức khoa học công nghệ đối với cơ chế, chính sách mới".
TS. Hồ Quang Hòa đề xuất định hướng cụ thể: "Xây dựng chiến lược nội dung gắn với bốn Nghị quyết trụ cột, thiết kế các chùm bài nghiên cứu thảo luận phổ biến xoay quanh các chủ đề: Tâm lý giáo dục cho chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo, tâm lý doanh nhân, văn hóa học tập suốt đời trong doanh nghiệp, giáo dục hành vi tiêu dùng năng lượng bền vững, tâm lý học đường".
Ông cũng đề xuất: "Tăng cường vai trò đặt hàng nghiên cứu của Liên hiệp Hội và tạp chí về tác động tâm lý giáo dục của chuyển đổi số, kinh tế tư nhân, năng lượng, giáo dục. Các kết quả được công bố trên tạp chí, đồng thời tóm lược theo dạng khuyến nghị chính sách gửi tới cơ quan hoạch định chính sách".
Về hình thức, TS. Hồ Quang Hòa cho rằng: "Phát triển báo chí đa phương tiện, tiếp cận rộng rãi đội ngũ giáo viên, sinh viên, trí thức trẻ. Bên cạnh bài báo khoa học truyền thống, cần phát triển podcast, video, infographic, tọa đàm trực tuyến".
Nhà báo Đặng Đình Chấn nhấn mạnh: "Trong nhiều giải pháp, giải pháp quan trọng nhất là thiết lập cơ chế phối hợp giữa Liên hiệp Hội Việt Nam và các cơ quan báo chí trong hệ thống. Cơ chế này cần rõ ràng về trách nhiệm, quyền lợi và cách thức phối hợp cụ thể".
TS. Nguyễn Văn Cảm khẳng định: "Cần xây dựng mạng lưới cộng tác viên là trí thức khoa học công nghệ, nhà giáo, nhà tâm lý học. Mở rộng đội ngũ tác giả, cộng tác viên là các nhà khoa học thuộc Liên hiệp Hội, giảng viên đại học, cán bộ quản lý giáo dục, chuyên gia tâm lý, doanh nhân".
Tuy nhiên, những giải pháp này cần đi kèm với những thay đổi căn bản về cơ chế hoạt động. Báo chí khoa học cần được tự chủ về nội dung, tự chủ về tài chính, tự chủ về tổ chức. Báo chí khoa học cần được đánh giá dựa trên tác động thực tế đến xã hội, chứ không chỉ là số lượng bài đăng hay chỉ số trích dẫn.
Sứ mệnh của báo chí khoa học trong giai đoạn 2025-2030 vượt xa việc công bố công trình khoa học và phổ biến kiến thức. Báo chí khoa học phải trở thành người đặt câu hỏi, người giám sát, người phản biện, trở thành diễn đàn thực sự độc lập, nơi các quan điểm khác nhau được bày tỏ và thảo luận. Từ những cuộc thảo luận ấy, tri thức mới và giải pháp mới cho các vấn đề của đất nước sẽ hình thành.
Nhiều ý kiến tại Hội thảo góp ý Dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) đề nghị phải xem xét lại vai trò và quyền ... |
Với vai trò cầu nối đa phương giữa các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, cộng đồng và thế giới, báo chí truyền thông không ... |
Chiều 8/10, tại Nhà Quốc hội, Hà Nội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã xem xét, cho ý kiến về dự án Luật Báo ... |
Đạt Xanh





