Quy hoạch băng tần tầm trung để làm chủ kỷ nguyên 6G
Mới đây, GSMA cảnh báo hơn nửa dân số đô thị trên toàn cầu sẽ bị quá tải mạng di động vào 2030 và khuyến nghị các nước cần bổ sung thêm 1-3 GHz băng tần tầm trung (mid-band spectrum) nếu muốn triển khai thành công 6G.
GSMA vừa công bố nghiên cứu Vision 2040, số liệu cho thấy các thành phố lớn trên thế giới sẽ rơi vào tình trạng nghẽn mạng từ 2030 nếu lượng băng tần tầm trung giữ nguyên như hiện nay. Hơn 50% dân số đô thị toàn cầu sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp qua độ trễ mạng tăng cao, tốc độ truyền dữ liệu giảm sút và trải nghiệm người dùng sa sút.
![]() |
| Ảnh minh họa |
GSMA chỉ ra nguyên nhân chính là thời gian chuẩn bị cho công nghệ 6G bị kéo dài. Các nhà sản xuất thiết bị cần từ 10 năm trở lên để phát triển hệ sinh thái thiết bị hoàn chỉnh. Trong khi các nhà mạng phải quyết định đầu tư cáp quang, nâng cấp trạm thu phát, lắp đặt trạm BTS nhiều năm trước khi dịch vụ mới chính thức ra mắt.
Báo cáo cho thấy 83% lượng dữ liệu truyền đi tập trung ở 5% bề mặt đất. Lượng dữ liệu tại các thành phố đông người có thể cao gấp 700 lần so với vùng nông thôn trên 01 km2.
GSMA khuyến nghị các thành phố đông dân cần 2-3 gigahertz băng tần tầm trung vào giai đoạn 2035-2040, và 2,5-4 gigahertz ở các quốc gia có lượng người dùng lớn. Nghiến cứu cho biết, nhiều quốc gia hiện chỉ cung cấp khoảng 1 gigahertz, có nghĩa cần bổ sung thêm 1-3 gigahertz.
Báo cáo nhấn mạnh ít nhất 2 gigahertz phải hoạt động trước 2030, nếu không việc triển khai 6G giai đoạn đầu sẽ gặp tình trạng nghẽn mạng nghiêm trọng.
Nghiên cứu của GSMA cho thấy mạng 6G sẽ chiếm khoảng 5 tỷ kết nối vào 2040, tương đương 50% tổng số kết nối di động toàn cầu. Công nghệ 4G và 5G vẫn hoạt động phổ biến ở các quốc gia đang phát triển.
Lượng dữ liệu truyền tải sẽ tăng mạnh, GSMA ước tính tăng trưởng 10% mỗi năm từ 2030 đến 2040, đạt 1.700 tỷ tỷ byte mỗi tháng (tương đương một triệu 700 nghìn terabyte). Nếu phát triển ở tốc độ cao hơn, lượng dữ liệu truyền tải có thể lên đến 4.000 tỷ tỷ byte mỗi tháng, chủ yếu từ các ứng dụng trí tuệ nhân tạo. (AI)
GSMA cho biết, AI tác động đến lưu lượng qua bốn kênh chính: Thứ nhất là các ứng dụng mới như trợ lý đa phương thức; Thứ hai là yêu cầu hiệu suất cao hơn cho video được cá nhân hóa; Thứ ba là thời gian trực tuyến tăng lên; Thứ tư là hiệu quả từ nén và tối ưu hóa dữ liệu.
Nghiên cứu đưa ra ví dụ cụ thể: 10% người dùng tạo ra 60-70% lượng dữ liệu di động, con người lớn lên cùng máy điện thoại và mạng toàn cầu đang bước vào tuổi trưởng thành, thói quen dùng này sẽ trở thành chiều hướng chung trong thời gian tới.
Nghiên cứu cho biết, hầu hết mạng đô thị đã vận hành với khoảng cách giữa các trạm từ 200 m-800 m. Nếu vượt qua ngưỡng này, các công ty viễn thông sẽ phải bỏ chi phí nhiều hơn trước, giải pháp chọn băng tần mới có khả năng mở rộng sẽ là giải pháp hiệu quả hơn so với giải pháp tăng trạm BTS, sẽ tiết kiệm rất nhiều cho các nhà mạng.
Sóng milimét vẫn chỉ đóng vai trò bổ sung, phù hợp với dung lượng cục bộ nhưng chỉ chở được 5-10% lưu lượng ở thành phố đông dân. Công nghệ này không thể thay thế băng tần trung cho khu vực rộng.
Mạng Wi-Fi cũng không phải giải pháp vì tính chất không được quản lý chặt chẽ, không thể đảm bảo hiệu suất ổn định cần thiết trong kỷ nguyên 6G. Với 4G và 5G vẫn hoạt động phổ biến đến 2040, việc chia sẻ phổ tần đa chuẩn vô tuyến trở nên quan trọng để cân bằng các thế hệ công nghệ.
Sóng mmWave vẫn chỉ đóng vai trò bổ sung phù hợp với dung lượng cục bộ và không thể thay thế băng tần trung cho khu vực rộng vì chỉ truyền được 5-10% lưu lượng ở thành phố đông dân.
Các nhà mạng Việt Nam cần xây dựng lộ trình băng tần cho nhiều năm tới dựa trên phát hiện của GSMA. Ưu tiên băng tần 6 gigahertz phía trên vì cung cấp khoảng 700 megahertz dung lượng mới giữa 6,425-7,125 gigahertz.
| Việt Nam sẽ thử nghiệm 6G năm 2030 |
Việt Nam cần tích hợp việc chia sẻ băng tần đa chuẩn vào thiết kế mạng để cân bằng mạng 4G, 5G và 6G. Giải pháp giúp tránh tình trạng lệch tải giữa các lớp công nghệ, giữ nhịp độ khai thác ổn định cho 4G, 5G và giai đoạn khởi động của 6G. Sự dịch chuyển của hành vi sử dụng dữ liệu tạo thêm nhiều thách thức cho các nhà mạng: Lượng truyền tải theo chiều lên (uplinks) tăng nhanh do video thời gian thực, hội nghị trực tuyến, nội dung tương tác và các thiết bị cảm biến. Cấu trúc mạng vốn ưu tiên chiều xuống (downlink) bộc lộ giới hạn khi độ nghiêng giữa hai chiều lớn dần. Các nhà mạng cần xây dựng mô hình dự báo dựa trên dữ liệu hiện trường, tính toán tải theo vùng, theo thời điểm và theo từng nhóm dịch vụ để nhận diện khu vực dễ nghẽn.
Chiến lược điều phối băng tần theo hướng linh hoạt giúp hạ tầng di động duy trì tính ổn định, bền vững trong giai đoạn chuyển tiếp lên 6G, đồng thời hạn chế nguy cơ nghẽn cục bộ ở đô thị và ven các khu công nghiệp. Đây là giải pháp hiệu quả để các nhà mạng Việt Nam phục vụ người dùng ổn định hơn trong bối cảnh nhu cầu kết nối đổi chiều và dồn vào những dịch vụ tạo ra luồng dữ liệu đẩy từ thiết bị lên mạng lưới.
Chính sách băng tần là yếu tố định hình tốc độ đổi mới số của quốc gia trong thập kỷ tới, mạng 6G cần băng thông lớn, độ trễ thấp và tính ổn định cao. Dải tần tầm trung là vùng duy trì được sự cân bằng giữa độ phủ và dung lượng, phù hợp triển khai diện rộng hơn so với dải tần cao. Các báo cáo quốc tế đều cho thấy dải này trở thành trụ cột khi bước vào giai đoạn thương mại hóa 6G.
Thông tư 01/2025/TT-BKHCN đánh dấu một bước quan trọng trong việc quản lý và phân bổ tài nguyên tần số vô tuyến điện tại Việt ... |
Các nhà sản xuất thiết bị đang thống nhất về phương pháp chia sẻ băng tần đa truy cập vô tuyến nhằm tối ưu hóa ... |
Cơ quan quản lý viễn thông Ấn Độ (TRAI) công bố tài liệu tham vấn về phân bổ phổ tần vi sóng trong các băng ... |
Hùng Cường
