Năm 2030: Phát triển kinh tế số đạt 30% GDP
Việt Nam đặt mục tiêu tỷ trọng kinh tế số đạt 30% GDP vào năm 2030.
Thách thức mục tiêu kinh tế số chiếm 30% GDP
Theo ước tính của Bộ Thông tin và Truyền thông, tỷ lệ đóng góp của kinh tế số trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng từ 11,91% năm 2021 lên 14,26% trong năm 2022 và 6 tháng đầu năm 2023 đã đạt gần 15%. Tuy vậy, vẫn còn cách khá xa mục tiêu đề ra cho năm 2025 là 20% GDP và 30% GDP vào năm 2030.
Chiến lược của Việt Nam có những nét đặc trưng và cách tiếp cận rất riêng. Đó là sự chuyển đổi từ kinh tế số chủ yếu là công nghệ thông tin (ICT) sang kinh tế số ngành, sự xuất hiện của các doanh nghiệp “Make in Việt Nam”. Đó còn là sự điều chỉnh và nỗ lực của Chính phủ trong việc cải thiện chính sách, gỡ bỏ rào cản để tạo thuận tiện hơn cho kinh tế số, thúc đẩy phát triển hạ tầng kinh tế số, trong đó có hạ tầng Internet băng rộng, Cloud, IoT, thúc đẩy đào tạo kỹ năng số cho người dân nhằm hướng tới mục tiêu kinh tế số đạt 30% GDP vào năm 2030.
Phát triển kinh tế số Việt Nam dựa trên 3 trụ cột gồm: Quản trị số; khai thác dữ liệu để tạo ra giá trị cho nền kinh tế; phát triển các các lực lượng sản xuất liên quan đến kinh tế số, trong đó lõi là công nghiệp là ICT chiếm 20-30% và còn lại 70-80% là kinh tế số ngành, được sinh ra là do chuyển đổi số các ngành.
Thực tế hiện nay, trong 3 trụ cột kể trên, quản trị số và khai thác dữ liệu để tạo ra giá trị còn chưa được chú ý. Kinh tế số chưa được phát triển đúng mức, ICT dù là động lực phát triển kinh tế số ngành nhưng cũng chưa có hướng dẫn để thúc đẩy nhằm tạo động lực phát triển.
Để hiện thực hoá mục tiêu này, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 81/2023/QH15 ngày 09/01/2023 về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Điểm nhấn của Nghị quyết là Quốc hội, Chính phủ luôn chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt chủ trương đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức và hoàn thiện thể chế để tạo thuận lợi cho tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số.
Nghị quyết nhấn mạnh, chúng ta cần phát triển mạnh hạ tầng số, hạ tầng dữ liệu tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số để đưa tỷ trọng kinh tế số đạt khoảng 30% GDP vào năm 2030.
Nghị quyết số 81/2023/QH15 đặt ra nhiều giải pháp đột phá thúc đẩy nền kinh tế số.
Giải pháp đột phá thực hiện mục tiêu
Cụ thể, phát triển hạ tầng thông tin và truyền thông đồng bộ và liên kết chặt chẽ, tạo thành một chỉnh thể thống nhất, hiện đại trên cơ sở ứng dụng công nghệ số tiên tiến; có khả năng cung cấp các dịch vụ thông tin và truyền thông tin cậy với giá cả phù hợp; bảo đảm an toàn thông tin mạng; đáp ứng yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong xây dựng chính phủ số, kinh tế số, xã hội số.
Phát triển mạng bưu chính đồng bộ, hiện đại, trở thành một trong những hạ tầng thiết yếu của quốc gia và của nền kinh tế số. Phát triển hạ tầng Internet quốc gia, tăng cường năng lực kết nối khu vực và quốc tế, đưa Việt Nam trở thành một trong những trung tâm dữ liệu khu vực. Xây dựng các trung tâm dữ liệu gắn với các vùng động lực, cực tăng trưởng, hành lang kinh tế; phát triển các cụm trung tâm dữ liệu quốc gia tại khu vực phía Bắc và khu vực phía Nam.
Chuyển dịch đầu tư xây dựng hệ thống truyền dẫn trục quốc gia từ tập trung phát triển theo trục Bắc - Nam sang mở rộng phát triển theo trục Đông - Tây, nâng cao năng lực dự phòng và phân tải cho mạng đường trục quốc gia. Phát triển các vệ tinh VINASAT của Việt Nam.
Hoàn thiện các nền tảng số quy mô quốc gia để vận hành thông suốt đáp ứng được yêu cầu chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Tiếp tục phát triển các khu công nghệ thông tin tập trung và thành viên chuỗi khu công viên phần mềm. Thu hút đầu tư, phát triển mạnh các khu công nghệ thông tin tập trung tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ và một số vùng có sự phát triển mạnh về công nghiệp công nghệ thông tin.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng - Bộ trưởng Bộ thông tin và Truyền thông, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số là một chặng đường dài, là ứng dụng nhiều hơn là nghiên cứu, các doanh nghiệp công nghệ số muốn thành công thì phải am hiểu bối cảnh Việt Nam.
Muốn tăng trưởng nhanh hơn, cao hơn thì cần không gian mới, cần lực lượng sản xuất mới, cần nguồn lực sản xuất mới, cần yếu tố sản xuất mới và cần động lực mới. Không gian mới là kinh tế số. Lực lượng sản xuất mới là công nghệ số. Nguồn lực sản xuất mới là nhân lực số. Yếu tố sản xuất mới là dữ liệu số. Động lực mới là đổi mới sáng tạo số.
Nghị quyết đã xác định, phát triển kinh tế số Việt Nam cần xây dựng thể chế số, hạ tầng số và niềm tin số. Kinh tế số phải dựa trên đổi mới sáng tạo số, phải tích hợp kinh tế số vào mọi ngành, mọi lĩnh vực, phải thực hiện quản trị số và phải đào tạo kỹ năng số, nhân lực số và đặc biệt là thu hút nhân tài số.
Cuối cùng, Cụ thể hóa nhiệm vụ kinh tế số đạt 30% GDP cần sự quyết tâm vào cuộc của tất cả đối tượng, tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp có vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế số.
Do đó, các bộ ngành, địa phương cần tập trung ưu tiên nguồn lực và có cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo lập khung pháp luật cho phát triển sản xuất thông minh và phát triển ngành công nghiệp công nghệ số theo định hướng “Make in Việt Nam”. Các doanh nghiệp phải biến công nghệ số thành động lực quan trọng cho đổi mới sáng tạo, thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Có thể bạn quan tâm


Ngân hàng đồng loạt giảm mạnh lãi suất huy động sau cuộc họp với NHNN
Thị trường
DeepSeek thúc đẩy làn sóng đầu tư dịch chuyển từ Ấn Độ sang Trung Quốc
Giao dịch số
Cuộc cách mạng 'tiện ích số': Khi đi chợ và giúp việc chỉ cần một chạm
Cuộc sống số