Tài sản số và các vấn đề liên quan
Hình minh họa. Ảnh DALL 3 AI.
Tại dự thảo Luật, tài sản số đã được đưa vào nội dung chính của Luật. Theo đó, tài sản số được hiểu là sản phẩm công nghệ số được tạo ra, phát hành, lưu trữ, chuyển giao và xác thực quyền sở hữu bằng công nghệ chuỗi khối, mà con người có quyền sở hữu theo quy định của pháp luật về dân sự và pháp luật có liên quan. Quản lý tài sản số yêu cầu sự kết hợp giữa công nghệ và quy trình quản lý, đảm bảo tính toàn vẹn, minh bạch và trách nhiệm giải trình. Đây là một nội dung mới và rất quan trọng, phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới trong thời đại số hóa.
Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI Đậu Anh Tuấn cho biết, đây là lần đầu tiên đưa ra khái niệm về tài sản số. Mặc dù tài sản số hay tiền ảo trên thực tiễn đã rất phát triển nhưng về mặt pháp lý dường như chúng ta chưa theo kịp, chưa có một khung khổ pháp lý cho loại tài sản này.
Chúng ta không có khung pháp lý liên quan đến tài sản số nhưng các giao dịch về tài sản số vẫn diễn ra thông qua sàn giao dịch nước ngoài và cá nhân.
Do đó, khi có khung khổ chính thức, hoạt động đầu tư kinh doanh theo lĩnh vực này mới có thể hình thành và phát triển. Khi đó công nghiệp công nghệ số dần được hình thành, phát triển mạnh mẽ, quyền và lợi ích của những người tham gia trong lĩnh vực này được bảo vệ. Đã có rất nhiều giao dịch liên quan tới tài sản số, nếu chúng ta chưa có khung khổ pháp lý thì giao dịch này trở nên rủi ro, mỏng manh, những người liên quan không được bảo vệ.
Định nghĩa tài sản số trên thế giới là gì?
Tài sản số là một khái niệm bao trùm nhiều loại tài sản phi vật thể có giá trị, được quản lý và lưu trữ trên các nền tảng công nghệ số. Các loại tài sản số phổ biến bao gồm tiền mã hóa (cryptocurrency), token không thể thay thế (NFT), dữ liệu số có giá trị, quyền sở hữu trí tuệ số, và các tài sản ảo trong môi trường số (ví dụ: trong các trò chơi trực tuyến hoặc nền tảng thực tế ảo). Sự phát triển nhanh chóng của các công nghệ như blockchain, trí tuệ nhân tạo và Internet vạn vật (IoT) đã làm gia tăng sự đa dạng và giá trị của tài sản số.
Trên thế giới, nhiều quốc gia đã bắt đầu thiết lập định nghĩa và khung pháp lý cho tài sản số. Chẳng hạn, ở Hoa Kỳ, Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch (SEC) coi các loại tiền mã hóa nhất định là chứng khoán nếu chúng đáp ứng các tiêu chuẩn quy định. Tại Singapore, Cơ quan Tiền tệ Singapore (MAS) đã phát triển các quy định nhằm quản lý dịch vụ liên quan đến tài sản số như giao dịch tiền mã hóa và dịch vụ lưu trữ.
Tình hình tại Việt Nam
Tại Việt Nam, khái niệm tài sản số vẫn chưa được định nghĩa rõ ràng trong các văn bản pháp luật. Các loại tài sản số như tiền mã hóa và token hiện chưa được công nhận là phương tiện thanh toán hợp pháp. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và sự gia tăng của các hoạt động giao dịch liên quan đến tài sản số đã tạo ra nhu cầu cấp bách về việc xây dựng khung pháp lý để quản lý và bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan.
Bộ Tài chính Việt Nam đang xem xét và nghiên cứu các mô hình khung pháp lý từ các quốc gia khác nhau để phát triển một hệ thống quản lý phù hợp. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức khi đưa ra các quy định pháp lý vì tài sản số có tính chất phức tạp, liên quan đến nhiều khía cạnh như an ninh mạng, thuế, phòng chống rửa tiền, và bảo vệ dữ liệu cá nhân.
Tăng trưởng tài sản số toàn cầu qua các mốc thời gian.
Chuyên gia nhận định
Các chuyên gia nhận định rằng, Việt Nam cần sớm có một khung pháp lý rõ ràng và minh bạch về tài sản số để tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế số. Ông Nguyễn Đức Kiên, một chuyên gia kinh tế, cho rằng Việt Nam không thể đứng ngoài xu hướng phát triển của thế giới về tài sản số, đặc biệt là trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang bùng nổ. Ông nhấn mạnh rằng một khung pháp lý đầy đủ sẽ giúp bảo vệ nhà đầu tư, ngăn chặn các hành vi gian lận, và thu hút các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam.
Một số chuyên gia pháp lý cũng cho rằng Việt Nam nên học hỏi từ các quốc gia tiên tiến như Singapore, Nhật Bản, và Hoa Kỳ để xây dựng một hệ thống pháp lý linh hoạt, đáp ứng được yêu cầu quản lý nhưng đồng thời cũng không kìm hãm sự sáng tạo và đổi mới. Bà Trần Thu Hương, chuyên gia tư vấn pháp lý tại một công ty luật lớn tại Hà Nội, nhấn mạnh rằng cần phải có sự hợp tác giữa các cơ quan chính phủ, doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế để đưa ra những quy định pháp lý phù hợp với thực tế.
XEM THÊM: Việt Nam: Tiền mã hóa bùng nổ với 120 tỷ USD, cần khung pháp lý chặt chẽ
Sự phát triển của tài sản số đang trở thành một xu thế không thể đảo ngược, và Việt Nam cần phải có những biện pháp kịp thời để xây dựng khung pháp lý vững chắc, không chỉ để bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan mà còn để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế số. Việc học hỏi từ kinh nghiệm quốc tế và tạo ra các chính sách phù hợp với điều kiện trong nước là chìa khóa để Việt Nam tiếp cận và khai thác hiệu quả tiềm năng của tài sản số.
Rất nhiều quốc gia trong khu vực ban hành luật lệ, chính sách để thúc đẩy tạo ra hành lang pháp lý cho những dòng tài sản này đóng góp vào nền kinh tế mang giá trị tích cực chứ không thể có cách nhìn tiêu cực là ảnh hưởng tới ổn định kinh tế từng quốc gia nói riêng.
Ông Trương Bá Tuấn, Phó Cục trưởng Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí (Bộ Tài chính) phân tích: Trong thời gian qua, với sự phát triển của công nghệ, tài sản số cũng phát triển rất mạnh trên thế giới. Chúng ta không có khung pháp lý liên quan đến tài sản số nhưng các giao dịch về tài sản số vẫn diễn ra thông qua sàn giao dịch nước ngoài và cá nhân.
Vì vậy, chúng ta cần thiết phải có khung pháp lý liên quan đến tài sản số. Trong đó, phải xác định và làm rõ được định nghĩa tài sản số là gì cũng như vị trí pháp lý của tài sản số. Nếu thừa nhận và quản lý tài sản số như tài sản thì đòi hỏi không chỉ sự tham gia của Bộ Tài chính mà của rất nhiều bộ, ngành có liên quan.
Ông Trần Huyền Dinh, CEO Công ty AlphaTrue cho rằng: "Hiện nay, hành lang pháp lý về tài sản số chưa được hoàn thiện, cho nên dẫn đến tình trạng thiếu rõ ràng trong việc xác lập quyền sở hữu và trách nhiệm thuế của DN.
Việc DN muốn các địa bàn lân cận như Singapore, Hong Kong (Trung Quốc) tạo ra thách thức cho DN trong việc tuân thủ pháp luật mà còn gây khó khăn trong việc thu hút vốn, đặc biệt vốn đầu tư nước ngoài".
Có ý kiến cho rằng, tài sản số không gắn với điều 105 của Bộ luật Dân sự quy định về Tài sản, thì sẽ không đảm bảo được tính đồng bộ và không áp dụng được các chế tài khác.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh bày tỏ đồng tình đưa khái niệm tài sản số trong dự luật. Tuy nhiên bà cho rằng phải nghiên cứu để đồng bộ với Bộ luật Dân sự.
Theo bà Thanh, trong Bộ luật Dân sự chỉ quy định tài sản là vật, là tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản, nhưng tài sản số chưa được phân loại thuộc những tài sản quy định ở đây.
Do đó, dự thảo luật quy định tài sản số được pháp luật bảo hộ là quyền tài sản cần phải nghiên cứu để phù hợp với các luật khác trong hệ thống pháp luật.
Bà cũng đề nghị cần tiếp tục nghiên cứu để quy định phù hợp với trí tuệ nhân tạo (AI). Bởi đây là lĩnh vực mới, đặt ra nhiều thách thức về quản lý.