Mạng xã hội: 'ngòi nổ' khiến khủng hoảng ngân hàng trở nên trầm trọng hơn

Mạng xã hội: 'ngòi nổ' khiến khủng hoảng ngân hàng trở nên trầm trọng hơn

Trong dòng chảy tiền tệ của thế giới đã chứng kiến nhiều cuộc khủng hoảng ngân hàng, tuy nhiên thời kỳ mạng xã hội phát triển như vũ bão, ngân hàng trực tuyến hoạt động xuyên suốt thì những cuộc khủng hoảng thời nay ngày càng khốc liệt và để lại nhiều hệ lụy. Một dòng Twitter hay một tin tức nóng hổi có thể thổi bay cả một đế chế.

Cuộc Khủng hoảng ngân hàng 1907.

Sự khác nhau giữa khủng hoảng ngân hàng ngày xưa và ngày nay

Cùng nhìn lại cuộc khủng hoảng năm 1907, phải mất sáu tuần thì cuộc khủng hoảng Cuộc khủng loạn ngân hàng năm 1907 mới lên đỉnh điểm, bắt đầu từ tháng 10 năm 1907. Nguyên nhân là sự phá sản của hai công ty môi giới nhỏ. Khi một nỗ lực thất bại của F. Augustus Heinze và Charles Morse để mua cổ phần của một công ty khai thác đồng dẫn đến việc rút tiền khỏi ngân hàng liên kết với họ. Hiệp hội Thanh toán bù trừ New York tuyên bố các ngân hàng này thanh toán một vài ngày sau đó.

Cuối cùng nó đã bị dập tắt khi chính phủ liên bang cung cấp hơn 30 triệu USD viện trợ, và các nhà tài chính hàng đầu như J.P. Morgan và John D. Rockefeller tiếp tục điều phối các thỏa thuận để mang lại niềm tin và thanh khoản cho thị trường tài chính. JP Morgan đã đóng một vai trò quan trọng trong việc xử lí khủng hoảng. Làm việc từ biệt thự của mình trên đường 34, JP Morgan đã triển khai mạng lưới thông tin rộng lớn của mình để huy động và tổ chức giải cứu các tổ chức tài chính lớn.

Thời đại mạng xã hội bùng nổ như hiện nay thì việc một dòng Twitter hay một tin tức tiêu cực đầy nóng hổi có thể khiến một ngân hàng có nguy cơ phá sản ngay trong một vài ngày, hàng loạt ngân hàng có thể bị cuốn vào rắc rối này cũng chỉ trong một tuần.

Việc ngân hàng Silicon Valley Bank (SVB) bị đóng cửa đã khiến các thị trường tài chính rối loạn và làm dấy lên câu hỏi: Liệu sự kiện này có làm suy yếu hệ thống ngân hàng và châm ngòi cho một cuộc khủng hoảng mới? Tỷ phú đầu tư Bill Ackman đã so sánh SVB với Bear Stearns - ngân hàng đầu tiên sụp đổ trong giai đoạn đầu khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008.

"Rủi ro sụp đổ và mất tiền gửi sẽ khiến các ngân hàng có mức an toàn vốn thấp đối mặt với nguy cơ bị rút tiền ồ ạt. Hiệu ứng domino sẽ xảy ra", Ackman viết trên Twitter.

Thông tin được chia sẻ theo cấp số nhân

Đây là "cuộc khủng hoảng ngân hàng đầu tiên của thế hệ Twitter", ông Paul Donovan – Chuyên gia kinh tế trưởng tại UBS Global Wealth Management - nhận định về sự sụp đổ của Credit Suisse.

Cổ phiếu Credit Suisse đã lao dốc không phanh vào ngày 14/03 sau khi cho biết đã phát hiện lỗ hổng trong báo cáo tài chính. Đó là thông tin khởi đầu cho 5 ngày khủng hoảng của nhà băng này và cuối cùng dẫn tới một vụ sáp nhập giữa Credit Suisse và UBS.

“Mạng xã hội giúp nâng cao tầm quan trọng của danh tiếng, có lẽ theo cấp số nhân, và tôi nghĩ đó là một phần của vấn đề này”, Donavan nói thêm.

Trong khi đó, ông Jon Danielsson - Giám đốc Trung tâm Rủi ro Hệ thống tại Trường Kinh tế London - cho rằng các mạng xã hội khiến tin dữ lan truyền nhanh hơn, xa hơn và gây ra thiệt hại nghiêm trọng hơn hồi năm 2008.

"Việc sử dụng Internet và mạng xã hội nhiều hơn, cùng với ngân hàng số và các dịch vụ tương tự, khiến hệ thống tài chính trở nên mong manh hơn so với trước đây", ông Danielsson nhận định.

Mạng xã hội không chỉ cho phép tin đồn lan truyền một cách dễ hơn mà còn nhanh hơn. “Đây chắc chắn là yếu tố làm thay đổi cuộc chơi hoàn toàn”, CEO Citi Jane Fraser cho biết trong một sự kiện tại Câu lạc bộ Kinh tế Washington, D.C. vào cuối tuần trước.

“Chỉ một vài dòng tweet và rồi sự sụp đổ của Silicon Valley Bank (SVB) diễn ra nhanh hơn rất nhiều so với quá khứ”, bà Fraser cho biết.

Các cơ quan điều hành đã đóng cửa SVB vào ngày 10/03 và đây là đợt sụp đổ ngân hàng lớn nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.

Thông tin được lan truyền chỉ trong vài giây, trong khi tiền có thể được rút khỏi các ngân hàng một cách nhanh chóng. Dịch vụ ngân hàng trực tuyến đã thay đổi hành vi của người dùng, cũng như cái nhìn về một vụ sụp đổ trong ngành tài chính.

"Không còn cảnh người người đứng xếp hàng dài bên ngoài ngân hàng như những gì đã xảy ra với Northern Rock ở Anh trong cuộc khủng hoảng tài chính. Giờ đây, các khách hàng chỉ cần lên mạng, thực hiện một vài thao tác rồi rời đi", ông Paul Donavan nhận định với CNBC.

Ông Stefan Legge, Chuyên gia tại Viện Nghiên cứu Tài chính IFF của Đại học St. Gallen, cho biết khi thông tin được truyền đi nhanh chóng, còn các khách hàng dễ dàng tiếp cận tài khoản tiền gửi, hệ thống ngân hàng dễ bị tổn thương hơn rất nhiều.

"Trước đây, dòng người xếp hàng dài trước các chi nhánh ngân hàng khiến nhiều người hoang mang. Nhưng giờ đây, chúng ta có mạng xã hội. Và làn sóng rút tiền khỏi ngân hàng sẽ xảy ra nhanh hơn nhiều", ông lập luận.

Bảng cân đối đã mạnh hơn

Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính, Liên minh châu Âu (EU) đã nỗ lực củng cố hệ thống thông qua việc thành lập các tổ chức giám sát tài chính mới, tăng cường kiểm tra khả năng chống chịu nhằm dự đoán mọi kịch bản có thể xảy ra và ngăn chặn sự sụp đổ.

Ông Danielsson cho biết các ngân hàng châu Âu khó rơi vào tình cảnh nghiêm trọng như hồi năm 2008. "Nguồn vốn ngân hàng đã ổn định hơn, cơ quan quản lý cũng chú ý hơn tới những mối nguy tiềm tàng và mức vốn cũng cao hơn", ông Danielsson đánh giá.

Ngày nay, các ngân hàng được kỳ vọng nắm tỷ lệ vốn an toàn cao hơn và tỷ lệ đòn bẩy là một thước đo tốt để đo lường sự khác biệt giữa tình hình tài chính năm 2008 và nay, Bob Parker, Cố vấn kinh tế cấp cao tại Hiệp hội Thị trường Vốn Quốc tế, cho biết trong chương trình “Squawk Box Europe” tuần trước.

“Nếu xem xét top 30 hoặc 40 ngân hàng toàn cầu, mức đòn bẩy hiện đang thấp và thanh khoản dồi dào. Rủi ro trong hệ thống ngân hàng hiện nay thấp hơn đáng kể so với 20-30 năm trước”, ông Parker cho biết.

Cơ quan điều hành Ngân hàng châu Âu (EBA) được thành lập trong năm 2011 để ngăn chặn những rủi ro xảy ra khủng hoảng tài chính. Cơ quan này nhấn mạnh “lĩnh vực ngân hàng châu Âu vẫn vững chắc với mức vốn cao và thanh khoản dồi dào”.

Vẫn còn quá nhiều vấn đề

Những ngân hàng riêng lẻ có thể lâm vào cảnh rắc rối cho dù toàn lĩnh vực trông có vẻ vững chắc. Ông Parker cho rằng vẫn còn đó nhiều vấn đề “rất nghiêm trọng” nhưng không phải là vấn đề có thể tác động tới cả hệ thống.

“Tôi thực sự không tin vào lập luận cho rằng chúng ta đang có một rủi ro hệ thống lớn trong lĩnh vực ngân hàng”, ông nói.

Bà Fraser cũng đưa ra nhận định tương tự khi so sánh giữa bối cảnh hiện nay với năm 2008. “Hiện tại không giống như lần trước (năm 2008), đây không phải là khủng hoảng tín dụng”, bà Fraser cho biết. “Đây là tình huống mà một vài ngân hàng gặp rắc rối và tốt hơn là hãy xử lý khi vấn đề chưa trở nên nghiêm trọng”.

Không có bằng chứng rõ ràng cho thấy mạng xã hội là tác nhân chính gây ra khủng hoảng ngân hàng. Tuy nhiên, mạng xã hội có thể ảnh hưởng đến tình hình tài chính của người dùng thông qua các hoạt động trên mạng, ví dụ như quảng cáo, marketing hoặc cảnh báo về những tin đồn hoặc thông tin sai lệch về tài chính.

Ngoài ra, mạng xã hội cũng có thể làm tăng sự tham gia và sự quan tâm của người dùng đến các hoạt động đầu tư và giao dịch trên thị trường tài chính, dẫn đến tình trạng bất ổn và tăng khả năng xảy ra khủng hoảng. Tuy nhiên, các yếu tố khác như sự thay đổi về kinh tế, chính sách tài chính, tình hình chính trị và quản lý tài chính cũng đóng vai trò quan trọng trong việc gây ra khủng hoảng ngân hàng.

Để hạn chế tác động của mạng xã hội đến khủng hoảng ngân hàng, có thể thực hiện các biện pháp sau:

Nâng cao kiến thức tài chính cho người dùng: Cung cấp cho người dùng thông tin chính xác, đáng tin cậy về các sản phẩm tài chính, đầu tư và rủi ro liên quan, giúp họ có thể đưa ra quyết định thông minh và tránh những quyết định sai lầm.

Quản lý các thông tin liên quan đến tài chính trên mạng xã hội: Đảm bảo rằng các thông tin liên quan đến tài chính trên mạng xã hội được kiểm soát và giám sát chặt chẽ, tránh thông tin sai lệch, lừa đảo và giả mạo được lan truyền trên mạng.

Tăng cường giám sát và quản lý thị trường tài chính: Tăng cường các cơ quan giám sát và quản lý thị trường tài chính để đảm bảo hoạt động của các tổ chức tài chính được điều tiết và kiểm soát chặt chẽ, giảm thiểu rủi ro và tăng tính ổn định của hệ thống tài chính.

Điều chỉnh chính sách tài chính: Thực hiện các chính sách tài chính phù hợp để tăng cường tính bền vững của hệ thống tài chính, hạn chế sự phụ thuộc vào tài chính trực tuyến và giảm thiểu các rủi ro liên quan đến tài chính.

Phối hợp giữa các tổ chức và doanh nghiệp: Tăng cường sự phối hợp giữa các tổ chức tài chính, doanh nghiệp và chính phủ để đưa ra các giải pháp phù hợp và hiệu quả trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến khủng hoảng ngân hàng.