Băn khoăn về đề xuất áp thuế tiêu thụ đặc biệt với nước giải khát có đường

Băn khoăn về đề xuất áp thuế tiêu thụ đặc biệt với nước giải khát có đường

Đã có nhiều quốc gia áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đối với đồ uống có đường, nhưng tỷ lệ thừa cân béo phì cũng như tình trạng sức khỏe của người dân không được cải thiện. Vì vậy, đã có nhiều băn khoăn về tính hiệu quả của đề xuất áp thuế TTĐB đối với nước giải khát (NGK) có đường của Bộ Tài chính. 

Băn khoăn về đề xuất áp thuế tiêu thụ đặc biệt với nước giải khát có đường

Toàn cảnh hội thảo. Ảnh: Thế Kiên

Mới đây, Bộ Tài chính đã có dự thảo tờ trình báo cáo Chính phủ về đề nghị xây dựng dự án Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) sửa đổi. Tờ trình nêu rõ, các nội dung sửa đổi, bổ sung Luật Thuế TTĐB thời gian qua đã đi vào cuộc sống, tác động tích cực đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Luật Thuế TTĐB đã góp phần định hướng sản xuất, tiêu dùng; điều tiết thu nhập của người tiêu dùng có thu nhập cao, góp phần tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội; góp phần bảo vệ môi trường và góp phần ổn định nguồn thu cho NSNN. Tuy nhiên, yêu cầu của thực tiễn đòi hỏi cần phải sửa đổi, bổ sung Luật Thuế TTĐB để giải quyết những bất cập phát sinh, khuyến khích chuyển đổi nhập khẩu, sản xuất, sử dụng sản phẩm thân thiện môi trường, hạn chế tiêu dùng hàng hoá có hại cho sức khoẻ cộng đồng, trẻ em.

Ngày 5/7 tại Hà Nội, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức Hội thảo “Góp ý đề nghị xây dựng Dự án Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi), nhằm thảo luận giải pháp tạo thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp cũng như bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước.

Các đại biểu đã thảo luận về nhiều nội dung sửa đổi quan trọng, tác động lớn đến các doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất, kinh doanh. Một trong những nội dung được nhiều đại biểu quan tâm nhất tại hội thảo là việc bổ sung nước giải khát (NGK) có đường vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.

Nhiều đại biểu cho rằng chưa có đủ bằng chứng và cơ sở khoa học thuyết phục để khẳng định việc áp dụng công cụ thuế này sẽ giúp cải thiện và nâng cao sức khỏe người dân mà cụ thể là phòng tránh nguy cơ thừa cân béo phì (TCBP), trong khi đó lại có thể gây ra những tác động tiêu cực lan tỏa đến nhiều ngành kinh tế và đời sống.

ông Vũ Tú Thành, Phó giám đốc điều hành, Hội đồng Kinh doanh Mỹ-ASEAN

ông Vũ Tú Thành, Phó giám đốc điều hành, Hội đồng Kinh doanh Mỹ-ASEAN trình bày quan điểm tại hội thảo.

Thuế nước giải khát có đường không làm giảm tình trạng thừa cân béo phì

Theo ông Vũ Tú Thành, Phó giám đốc điều hành, Hội đồng Kinh doanh Mỹ-ASEAN, thực tiễn một số nước sau một thời gian áp dụng thuế TTĐB lên mặt hàng nước giải khát có đường lại có tỷ lệ thừa cân béo phì không giảm mà lại tăng qua các năm. Như Chile có thời điểm áp dụng vào năm 2014, giai đoạn 2009-2010, tỉ lệ béo phì ở nam và nữ giới lần lượt là 19,2% và 30,7%. Sau khi áp dụng thuế TTĐB đối với nước ngọt, đến giai đoạn 2016-2017, tỉ lệ béo phì ở cả nam và nữ giới Chile đều tăng, lần lượt là 30,3% và 38,4%.

Còn quốc gia châu Âu như Bỉ áp dụng năm 2016, năm 2014, tỉ lệ béo phì ở nam giới nước này là 13,9% còn ở nữ giới là 14,2%, nhưng đến năm 2019, tỉ lệ này ở nam giới là 17,2% và nữ giới là 15,6%.

Hay Mexico cũng áp dụng vào năm 2014, năm 2012, tỉ lệ béo phì ở nam giới là 26,8% còn nữ giới là 37,5%, nhưng đến 2018-2019 thì tỉ lệ này đã tăng lên 30,5% ở nam giới và 40,2% ở nữ giới.

Thêm một điểm đáng lưu ý, sau 2 năm áp thuế, lượng tiêu thụ đồ uống có đường của Mexico lại tăng thêm 1.6%, ghi nhận mức tăng trưởng bình quân trước thời điểm áp thuế, cho thấy đây là sản phẩm có độ co giãn của cầu thấp, dẫn tới lượng tiêu thụ ít bị tác động bởi yếu tố tăng giá.

Một báo cáo của Ủy ban Châu Âu năm 2014 cũng đã chỉ ra điều tương tự khi mà lượng tiêu thụ nước ngọt tại Pháp chỉ giảm 3,3%, trong khi giá sản phẩm đã tăng 5% do thuế. Điều này chứng minh việc thiếu hiệu quả khi sử dụng công cụ thuế để kiểm soát nhóm hàng này.


XEM THÊM: Chưa đủ bằng chứng kết luận đồ uống có đường là nguyên nhân gây béo phì


Nhiều tiểu bang của Mỹ sau khi áp dụng thuế đối với nước ngọt có đường, nhiều người dân đã chuyển sang mua đồ uống từ các bang khác, nên chính sách này cũng không có tác dụng trong việc giảm tiêu thụ đồ uống có được hoặc giảm tỷ lệ TCPB.

Do đó, một số nước đã phải từ bỏ công cụ này sau một thời gian áp dụng vì không có tác động đáng kể lên việc cải thiện sức khoẻ cộng đồng. Theo báo cáo của WHO, cho đến nay, Đan Mạch và Nauy đã chính thức bãi bỏ sắc thuế TTĐB áp dụng với nước giải khát có đường. Chính phủ tuyên bố bãi bỏ thuế này nhằm tạo việc làm và giúp đỡ nền kinh tế địa phương, ông Thành cho hay.

Cần cân nhắc hiệu ứng thay thế

Các nghiên cứu thực nghiệm và mô hình từ một số quốc gia châu Âu cho thấy rằng việc giảm tiêu thụ hàng hóa bị đánh thuế thường đi đôi với việc tăng tiêu thụ hàng hóa thay thế.

Các nghiên cứu tại Đại học Yale của Hoa Kỳ và Viện nghiên cứu kinh tế của New Zealand đã kết luận rằng việc áp thuế với đồ uống có đường chỉ khiến người tiêu dùng lựa chọn các đồ uống thay thế như sữa, nước trái cây, hoặc bia, những sản phẩm có hàm lượng calo tương đương. Điều này được giải thích bởi hoạt động trao đổi chất của cơ thể con người có xu hướng phản kháng lại những tác động của một chế độ ăn kiêng bị áp đặt bởi yếu tố bên ngoài. Do đó, người tiêu dùng có hành vi tìm kiếm các sản phẩm thay thế để bù đắp lại lượng calo thiếu hụt.

Một số đại biểu tại hội thảo cũng cho rằng, ngoài nhóm đồ uống công nghiệp còn có sự tồn tại phổ biến của nhóm đồ uống đường phố. Đồ uống đường phố là phân khúc khó khả thi để thu thuế và quản lý về chất lượng hàng hoá, đặc biệt là về hàm lượng đường trong sản phẩm.

Tại Việt Nam, nhu cầu giải khát của người lao động phổ thông, người có thu nhập thấp là rất lớn, nếu như không tiêu thụ các loại đồ uống được sản xuất và lưu thông hợp pháp có hóa đơn thuế thì người tiêu dùng có thể sẽ tìm cách tiêu thụ đồ uống được sản xuất thủ công hoặc nhập lậu vốn rất phổ biến trên thị trường và có thể có giá thành rẻ hơn do không phải chịu thuế TTĐB.

Vì vậy, việc bổ sung mặt hàng nước giải khát có đường vào đối tượng chiu TTĐB sẽ có tác động tiêu cực đến sự phát triển của ngành công nghiệp đồ uống và tạo điều kiện cho các mặt hàng đồ uống không chính thức, sản xuất thủ công hoặc nhập lậu phát triển, nhất là trong tình hình thu nhập giảm, lạm phát tăng cao như hiện nay.

bà Nguyễn Minh Thảo, trưởng ban Nghiên cứu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM)

Bà Nguyễn Minh Thảo, trưởng ban Nghiên cứu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM)

Ảnh hưởng kinh tế

Góp ý về dự thảo, bà Nguyễn Minh Thảo, trưởng ban Nghiên cứu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng cần xem xét các tác động của chính sách thuế này đối với không chỉ ngành nước giải khát mà còn ảnh hưởng đến các ngành công nghiệp phụ trợ có liên quan như ngành mía đường, bán lẻ, bao bì, và hậu cần.

Theo một báo cáo được CIEM thực hiện vào năm 2018-2021, nếu bổ sung mặt hàng này vào diện chịu thuế TTĐB với mức thuế suất 10% và nâng thuế GTGT thêm 2% với mặt hàng này thì sẽ khiến doanh thu của ngành sản xuất nước giải khát thiệt hại khoảng 3.791,4 tỷ đồng, trong khi đó mức doanh thu thuế tăng thêm cho ngân sách nhà nước chỉ đạt 2.722,3 tỷ đồng. Ngoài ra, chính sách thuế này nếu được áp dụng sẽ kéo theo hàng loạt tác động lan tỏa đối với tất cả các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị theo chiều dọc như các doanh nghiệp bao bì, vận chuyển, bán lẻ, mía đường, … và cả nền kinh tế nói chung.

Xét tổng thể, giá trị tăng thêm của cả nền kinh tế (GVA) giảm 0,135%, GDP giảm 0,115%, thu nhập của người lao động từ sản xuất của cả nền kinh tế giảm 0,155%, thặng dư sản xuất giảm 0,083%, lao động giảm 0,092%; thu ngân sách qua thuế gián thu giảm khoảng từ 0,065% – 0,085%.

Ông Nguyễn Văn Việt, Chủ tịch Hiệp hội Rượu – Bia – NGK

Ông Nguyễn Văn Việt, Chủ tịch Hiệp hội Rượu – Bia – NGK phát biểu tại hội thảo

Chia sẻ thêm về quan điểm này, Ông Nguyễn Văn Việt, Chủ tịch Hiệp hội Rượu - Bia - NGK, dẫn chứng số liệu của Tổng cục thống kê mới công bố về tình hình kinh tế nửa đầu năm. Theo đó, GDP quý II ước tăng 4,14% so với cùng kỳ năm trước nhưng kết quả này chỉ cao hơn tốc độ tăng 0,34% của quý II/2020, giai đoạn dịch Covid-19 diễn biến phức tạp.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 6 tháng tăng 3,29% trong khi lạm phát cơ bản tăng 4,74%. Thêm vào đó, các doanh nghiệp chỉ mới phục hồi sau đại dịch nhưng cùng lúc chịu sức ép trách nhiệm tài chính từ các chính sách khác như thực hiện trách nhiệm tái chế bao bì theo Nghị định 08/2022/NĐ-CP bắt đầu có hiệu lực từ 01/01/2024. Nếu cải cách các loại thuế nếu không phù hợp sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phục hồi của doanh nghiệp và mục tiêu tăng trưởng của Chính phủ.

Đồng tình với quan điểm trên, ông Trần Ngọc Trung, trưởng Tiểu ban Pháp luật, Hiệp hội thương mại Hoa Kỳ tại Hà Nội cho rằng, đường là một mặt hàng đặc biệt khi đang được hưởng những chính sách bảo hộ để hỗ trợ phát triển, như hạn ngạch thuế quan, thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp. Việc áp dụng thuế TTĐB cho các sản phẩm có đường sẽ tạo sự thiếu nhất quán về mặt lập pháp trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngành đường bằng cách gián tiếp hạn chế lượng tiêu thụ đường.

Ngoài ra, mục tiêu thu ngân sách cũng khó đạt được do sự tương quan trong việc giảm thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp của các nhà sản xuất đồ uống, tạo sự sụt giảm theo chuỗi cung ứng khi các doanh nghiệp cung cấp đầu vào khác cũng chịu sự sụt giảm theo.

Ông Trung cũng lo ngại công cụ thuế khó có thể điều chỉnh hành vi người tiêu dùng do đồ uống là một loại thực phẩm, là nhu cầu cơ bản. Thay vào đó, cần nghiên cứu đưa ra các giải pháp phù hợp hơn như Quy chuẩn Kỹ thuật về hàm lượng đường tối đa trong thực phẩm.

Đâu là giải pháp chính sách.

Năm 2023, WHO đã cập nhật danh sách các can thiệp hiệu quả nhất về mặt chi phí để giải quyết các bệnh không lây nhiễm (Best Buys). Mặc dù cập nhật mới nhất này của WHO đã nâng số lượng các biện pháp can thiệp hiệu quả hiệu quả nhất từ 16 nhóm biện pháp (năm 2017 và năm 2022) lên 28 nhóm can thiệp vào năm 2023, tuy nhiên biện pháp áp thuế lên đồ uống có đường vẫn không được nằm trong danh sách các biện pháp can thiệp hiệu quả nhất này.

Trong một báo cáo của Viện Nghiên cứu Toàn cầu McKinsey, chính sách áp thuế đối với đồ uống có đường chỉ đứng thứ 13 trên 16 về mức độ hiệu quả trong đẩy lùi TCBP, bên cạnh đó giải pháp này vẫn chưa có đủ cơ sở kết luận tính xác thực của nó. Vì vậy, McKinsey tin rằng việc thay đổi khẩu phần ăn, xây dựng chương trình giám sát cân nặng, dán nhãn năng lượng hay cải tiến công thức sản phẩm để giảm hàm lượng đường, chất béo và muối là những giải pháp hữu hiệu hơn nhiều để phòng chống chống béo phì.

Một số điển hình các quốc gia thành công trong việc kiểm soát thừa cân, béo phì mà không sử dụng công cụ thuế là Nhật Bản, Singapore hay Đức. Ví dụ, tại Nhật mặc dù có tỷ lệ tiêu thụ nước giải khát cao hơn nhiều so với Việt Nam (116kg/người/ năm) nhưng tỷ lệ béo phì ở quốc gia này chỉ 3,5%. Nhật Bản đã xây dựng hai bộ luật Shuku Iku và Metabo, trong đó quy định quá trình xây dựng thực đơn lành mạnh trong các trường học và thực hiện các bài giảng về dinh dưỡng cho học sinh. Bộ luật này cũng yêu cầu các công ty phải có thời gian nghỉ giữa giờ để nhân viên tập thể dục, đồng thời khuyến khích nhân viên tham gia hoạt động thể chất sau giờ làm việc.

Chính phủ Singapore tập trung vào các chính sách tăng cường hoạt động thể chất và dinh dưỡng như Chương trình Bữa ăn lành mạnh tại trường học và Thử thách Bước chân Quốc gia.

Tại châu Âu, Đức đang áp dụng các chính sách hướng dẫn về chế độ ăn uống và hoạt động thể chất, áp đặt các hạn chế trong quảng cáo; trong đó các biện pháp về truyền thông và khuyến khích cải cách được ước tính là giúp phòng chống 218 nghìn bệnh không lây nhiễm đến năm 2050.